NHẬN ĐỊNH KÈO BÓNG

Nhận Định Kèo Bóng Liverpool Vs Ajax 02:00 Ngày 14/09: Chiến Thắng Tối Thiểu

By admin_test 11/09/2022
1020 0

Nhận định kèo bóng Liverpool vs Ajax 02:00 ngày 14/09 tại sân vận động Anfield được 88uu 88online cập nhật liên tục tỷ lệ kèo nhà cái, nhận định kèo, trực tiếp bóng đá LiveScore, kèo giữa trận.

Nhận định kèo bóng Liverpool vs Ajax 

nhà cái 88online 88uu uu88 tặng 88888K miễn phí

Dù gặp khó khăn nhưng đẳng cấp của The Kop vẫn sẽ biết cách lên tiếng tại Anfield

Cơn bão chấn thương đã khiến Liverpool khởi đầu mùa giải đầy khó khăn, đứng thứ 7 ở giải Premier League và trắng tay ngay ngày ra quân Champions League. Jurgen Klopp đang nỗ lực làm mới lối chơi sau 6 năm thành công rực rỡ, tuy nhiên sau sự ra đi của Mane hàng công là một bài toán chưa có lời giải. Ngoài chiến thắng trước một tân binh như Bournemouth thì ở 6 trận gần nhất Liverpool chỉ có được 7 bàn thắng thậm chí đội bóng này vừa tịt ngòi trong cuộc đối đầu với Everton. Khả năng phòng ngự vẫn ổn định dưới sự chỉ huy của HLV Van Dijk, tuy nhiên lối chơi thiếu sự đột biến cũng như phong độ nghèo nàn của Mo Salah và Nunez đang rất đáng lo ngại. Với tuyến trên liên tục bị xáo trộn, rõ ràng chưa thể đòi hỏi The Kop bùng nổ ở giai đoạn này.

nhà cái 88online 88uu uu88 tặng 88888K miễn phí

Phong độ của Ajax quá hoàn hảo với 6 chiến thắng liên tiếp, lượt trận đầu tiên còn đánh bại Rangers 4-0 đầy thuyết phục.

Bất chấp sự ra đi của HLV trưởng Ten Hag và hàng loạt những trụ cột, Ajax khởi đầu mùa giải bằng 6 chiến thắng liên tiếp. Lối chơi khoa học và cực kỳ chắc chắn được thể hiện ở ngày mở màn Champions League, Ajax dễ dàng đánh bại Rangers 4-0 để vươn lên dẫn đầu bảng A. Hàng thủ là điểm tựa vững vàng, thầy trò HLV Schreuder mới thủng lưới 3 bàn từ đầu mùa và giữ sạch lưới 4/6 trận. Không hề đơn giản nếu muốn xuyên thủng hệ thống phòng ngự của Ajax. Hiệu suất làm bàn trên sân khách không mấy ấn tượng, nhưng khi đối đầu với các ông lớn Ajax tỏ ra cực kỳ khó chịu. Điển hình như 2 cuộc đọ sức với chính Liverpool ở mùa giải 2021, họ chỉ chịu thua tối thiểu 0-1. Sau những gì đã thể hiện, Ajax sẽ không dễ dàng chịu khuất phục.

Xem tỷ lệ Châu á, kết quả trực tiếp Liverpool vs Ajax

Thống kê thành tích của 2 đội Liverpool vs Ajax 

Phong độ gần nhất của 2 đội Liverpool vs Ajax 

nhà cái 88online 88uu uu88 tặng 88888K miễn phí

Thành tích gần nhất của 2 đội Liverpool vs Ajax

Lịch sử đối đầu giữa 2 đội Liverpool vs Ajax 

nhận định kèo bóng Liverpool vs Ajax

Kết quả đối đầu giữa 2 đội Liverpool vs Ajax

Đội hình dự kiến

Liverpool: Alisson, Arnold, Gomez, Van Dijk, Robertson, Thiago, Fabinho, Elliott, Diaz, Salah, Nunez.

Ajax: Pasveer, Blind, Bassey, Timber, Rensch, Taylor, Alvarez, Berghuis, Tadic, Bergwijn, Kudus.

Chuyên gia dự đoán 

Không cần phải nói thêm về sức mạnh của Liverpool cũng như chênh lệch về đẳng cấp giữa 2 đội. Mặc dù vậy đây là thời điểm Ajax nắm trong tay rất nhiều lợi thế để có thể làm nên 1 điều bất ngờ. Đó là thành tích đối đầu tốt và tính ổn định trong lối chơi, 2 cuộc đối đầu trước đây Ajax chỉ thua với cách biệt tối thiểu 1 bàn.

Phong độ của Ajax quá hoàn hảo với 6 chiến thắng liên tiếp, lượt trận đầu tiên còn đánh bại Rangers 4-0 đầy thuyết phục. Bên cạnh đó hàng thủ thi đấu rất ấn tượng khi giữ sạch lưới 4 trận liên tiếp. Phía bên kia Liverpool vừa thua tan nát 1-4 trước Napoli, 7/8 trận gần nhất đều thua theo kèo châu Á. Chưa kể đến sự vắng mặt của Thiago và thủ quân Henderson khó có thể thay thế.

Cá cược bóng đá 88online, 88uu: Đăng ký +88.888K. Hoàn 8%

88online dự đoán tỉ số của Liverpool 1-0 Ajax 

nhà cái 88online 88uu uu88 tặng 88888K miễn phí

Thông tin đội Liverpool

Là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Liverpool, Anh, hiện đang thi đấu ở Premier League, giải đấu hàng đầu của hệ thống bóng đá Anh. Ở trong nước, câu lạc bộ đã giành được 19 chức vô địch Ngoại hạng Anh, 8 FA Cup, kỷ lục 9 League Cup và 15 FA Community Shield.

Trong các giải đấu quốc tế, câu lạc bộ đã giành được sáu Cúp C1 Châu Âu, nhiều hơn bất kỳ một câu lạc bộ Anh nào khác, ba Cúp UEFA, bốn Siêu cúp UEFA và một FIFA Club World Cup.

Liverpool được thành lập vào ngày 3 tháng 6 năm 1892 bởi John Houlding và lên chơi tại giải cấp quốc gia trong năm kế tiếp. Đội đã sử dụng sân nhà Anfield từ khi thành lập cho đến nay.

Đội thi đấu rất thành công trong thập niên 70 và 80, dưới thời các huấn luyện viên Bill Shankly và Bob Paisley, họ đã giành được 11 chức vô địch quốc gia cùng 7 danh hiệu châu Âu.

Liverpool có lượng cổ động viên hùng hậu và rất trung thành. Những kình địch lâu đời của họ là đội bóng hàng xóm Everton và đội Manchester United. Bài hát truyền thống của đội là “You’ll Never Walk Alone” (tạm dịch: “Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc”).

Cầu thủ Liverpool lần đầu mặc trang phục thi đấu toàn bộ đỏ vào năm 1964, khi huấn luyện viên Bill Shankly cho rằng màu đỏ sẽ gây tác động đến tâm lý đối phương.

Đội bóng có mặt trong hai sự kiện đáng buồn của bóng đá châu Âu. Đầu tiên là thảm họa tại sân Heysel vào năm 1985, nhiều cổ động viên Liverpool quá khích đã tấn công cổ động viên Juventus khiến một bức tường khán đài sập xuống, gây ra cái chết của 39 người.

Năm 1989, đến lượt thảm họa thứ hai là Hillsborough khi 97 cổ động viên Liverpool đã thiệt mạng do bị xô đẩy dồn ép vào dải rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ.

Câu lạc bộ bóng đá Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm bắt đầu từ năm 1884.

Tới năm 1891, John Houlding, chủ tịch Everton đồng thời là người đứng tên hợp đồng thuê sân Anfield, mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding nên các thành viên còn lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, nằm ở phía bắc công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng vào ngày 15 tháng 3 năm 1892 và được công nhận chính thức ba tháng sau đó khi Hiệp hội bóng đá từ chối công nhận câu lạc bộ là Everton.

Đội bóng đã giành được Giải Lancashire League trong mùa giải ra mắt của mình và gia nhập Giải hạng hai Football League vào đầu mùa giải 1893-94. Sau khi kết thúc ở vị trí đầu tiên, câu lạc bộ đã được thăng lên hạng Nhất và giành chiến thắng vào năm 1901 và một lần nữa vào năm 1906.

Câu lạc bộ Liverpool được thành lập và chơi tại sân Anfield đang bỏ trống. Tên ban đầu là Everton F.C. and Athletic Grounds, Ltd (gọi tắt là Everton Athletic), nhưng sau đó được đổi thành Liverpool Football Club vào tháng 3 năm 1892 do Liên đoàn bóng đá Anh từ chối công nhận cái tên Everton và được công nhận chính thức ba tháng sau đó.

Liverpool đã lọt vào chung kết FA Cup đầu tiên vào năm 1914, thua 1-0 trước Burnley. Câu lạc bộ vô địch Giải Hạng nhất hai năm liên tiếp vào các mùa 1921-22 và 1922-23, nhưng sau đó không vô địch danh hiệu nào cho tới 1946-47 khi họ vô địch giải quốc gia lần thứ năm dưới quyền của cựu trung vệ West Ham Utd, George Kay.

Câu lạc bộ vào đến trận chung kết Cúp FA 1950 nhưng thua Arsenal. Liverpool bị xuống hạng Nhì vào mùa giải 1953-54. Trong giai đoạn này họ đã phải chịu một trận thua 2-1 ở Cúp FA trước đội bóng ít tên tuổi Worcester City, mùa 1958-59 thì Bill Shankly được bổ nhiệm làm HLV trưởng.

Không lâu sau kết quả mất mặt này, Bill Shankly được bổ nhiệm làm huấn luyện viên, lúc này Liverpool đang suy yếu, với trang thiết bị luyện tập cũ nát, đội ngũ ban huấn luyện kém cỏi.

Ông đã sa thải 24 cầu thủ và thay đổi một phòng ở Anfield, ban đầu được dùng để khởi động thành một phòng gọi là Boot Room, nơi các cầu thủ cùng huấn luyện viên có thể bàn bạc chiến thuật và uống trà.

Tại đây, Shankly cùng các thành viên ban đầu của Boot Room, gồm Joe Fagan, Reuben Bennett và Bob Paisley, bắt đầu cải tổ lại đội bóng.

Lên lại Giải Hạng nhất vào mùa giải 1961-62, và vô địch lần đầu tiên sau 17 năm vào mùa 1963-64. Mùa 1965-66, họ vô địch Giải Hạng nhất rồi đoạt Cúp FA đầu tiên, nhưng sau đó thua trước Borussia Dortmund trong trận chung kết Cúp các đội đoạt cúp.

Mùa giải 1972-73 đội bóng vô địch Giải Hạng nhất, đoạt Cúp UEFA – đây là cúp châu Âu đầu tiên trong lịch sử đội bóng, và tiếp đó 1973-74 đoạt Cúp FA. Sau 15 năm dẫn dắt đạt được nhiều thành công, đưa Liverpool trở thành một trong những câu lạc bộ hàng đầu châu Âu, tháng 7 năm 1974, Shankly tuyên bố nghỉ hưu, ông rời đội bóng và trợ lý Bob Paisley lên thay.

Paisley thậm chí còn đạt được nhiều thành công hơn Shankly khi giúp đội bóng vô địch Giải Hạng nhất và Cúp UEFA ngay trong mùa giải 1975-76 – mùa thứ hai ông làm huấn luyện viên.

Mùa tiếp đó, họ bảo vệ thành công danh hiệu vô địch Giải Hạng nhất, đoạt được cúp vô địch châu Âu (Cúp C1) đầu tiên trong lịch sử đội bóng, nhưng để thua trong trận chung kết Cúp FA, bỏ lỡ cơ hội đoạt cú ăn ba.

Mùa 1977-78, Liverpool bảo vệ thành công ngôi vô địch Cúp C1 và vô địch Giải Hạng nhất lần nữa với số điểm 68, chỉ để thủng lưới 16 bàn trong 42 trận.

Trong 9 mùa bóng Paisley dẫn dắt đội bóng, Liverpool đã vô địch 21 danh hiệu, bao gồm: 3 Cúp C1, 1 Cúp UEFA, 6 chức vô địch Giải Hạng nhất, 3 Cúp Liên đoàn cùng nhiều danh hiệu khác. Danh hiệu duy nhất ông không giành được là Cúp FA. Kỉ nguyên của Paisley là kỉ nguyên của các ngôi sao lớn: Graeme Souness, Ian Rush, Alan Hansen và Kenny Dalglish.

Paisley rời băng ghế huấn luyện vào năm 1983 và (cũng giống như Shankly đã làm) để lại chiếc ghế huấn luyện cho thành viên của Boot Room, trợ lý huấn luyện viên Joe Fagan. Liverpool có được ngay 3 danh hiệu trong mùa giải 1983-84 – mùa đầu tiên Fagan tiếp quản, gồm: Giải Hạng nhất, Cúp Liên Đoàn và Cúp C1, trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành được cú ăn ba trong một mùa giải.

Liverpool chơi trận chung kết Cúp C1 lần nữa vào ngày 29 tháng 5 năm 1985, trận gặp Juventus trên sân vận động Heysel, thành phố Brussels, nước Bỉ.

Trước khi trận chung kết bắt đầu, nhiều cổ động viên Liverpool chủ động tấn công cổ động viên Juventus bằng chai lọ rồi tràn qua phần khán đài của họ. Kết quả nhiều cổ động viên Juventus bị dồn vào một bức tường khiến bức tường này đổ sập, giết chết 39 người trong số họ, hầu hết là cổ động viên người Ý.

Trận đấu sau đó vẫn diễn ra và Liverpool thua 1-0 bởi bàn thắng phạt đền của Michel Platini ở phút 57. Các đội bóng Anh sau đó đã bị cấm thi đấu ở các giải châu Âu trong 5 năm, Liverpool nhận mức phạt 10 năm, sau đó được giảm xuống còn 6 năm.

14 cổ động viên Liverpool phải nhận mức án 3 năm tù cho tội ngộ sát. Thảm họa này được gọi là “Giờ đen tối nhất trong lịch sử các cuộc đấu UEFA”.

Fagan từ chức ngay sau thảm hoạ và Kenny Dalglish được bổ nhiệm trên cương vị huấn luyện viên kiêm cầu thủ. Trong thời gian ông nắm quyền, đội bóng 3 lần vô địch Giải Hạng nhất và đoạt 2 Cúp FA, bao gồm một cú ăn hai vào mùa giải 1985-86.

Chỉ 4 năm sau thảm họa Heysel, năm 1989, thêm một thảm họa khác liên quan đến cổ động viên của Liverpool xảy ra. Trong trận bán kết Cúp FA gặp Nottingham Forest tại sân Hillsborough ngày 15 tháng 4 năm 1989, sân quá tải khiến nhiều người bị dồn ép vào hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, giẫm đạp lên nhau trong vô vọng.

94 cổ động viên đã thiệt mạng vào ngày hôm đó. Bốn ngày sau, số người thiệt mạng là 95 khi một cậu bé 14 tuổi qua đời. Bốn năm sau, tới lượt cổ động viên thứ 96 qua đời trên giường bệnh sau một thời gian dài sống thực vật.

Sau thảm họa này, chính quyền đã phải kiểm tra mức độ an toàn của các sân bóng. Theo như Báo cáo Taylor (Taylor Report), nguyên nhân chính của thảm hoạ là do sự quá tải dẫn tới việc cảnh sát không thể kiểm soát được tình hình.

Một luật lệ đã được ban hành và mọi sân vận động ở giải đấu vô địch nước Anh phải dỡ bỏ hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, các khán đài phải được phủ kín bởi ghế ngồi.

Mùa giải 1988-89 cũng chứng kiến Liverpool bị mất chức vô địch Hạng nhất một cách bất ngờ nhất kể từ khi giải đấu ra đời, khi câu lạc bộ mất danh hiệu bởi hiệu số bàn thắng-thua vào đúng phút cuối của mùa giải, trong trận thua trước chính nhà vô địch mùa đó là Arsenal.

Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Dalglish bất ngờ tuyên bố từ chức, người thay thế ông là Graeme Souness. Ngoại trừ Cúp FA vào năm 1992, Souness không giành thêm được thành công nào và bị thay thế bởi cựu thành viên Boot Room Roy Evans.

Evans đạt được một chút thành công: chức vô địch Cúp Liên đoàn năm 1995 là danh hiệu duy nhất của ông. Điểm sáng nữa là chiến thắng 4-3 trước Newcastle United ở Anfield ngày 3 tháng 4 năm 1996 được đánh giá là trận đấu hay nhất của Giải Ngoại hạng trong 10 năm.

Trong giai đoạn này, Liverpool sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do họ tự đào tạo và xây dựng một lối chơi tấn công đẹp mắt. Đặc biệt là bộ ba Spice Boys gồm: Steve McManaman, Jamie Redknapp và Robbie Fowler, sau đó được bổ sung thêm các nhân tố tấn công như Patrik Berger, Stan Collymore và đặc biệt là tiền đạo trẻ tuổi Michael Owen.

Trong khi họ thực hiện một số thách thức danh hiệu dưới thời Evans, kết thúc ở vị trí thứ ba vào năm 1996 và 1998 là điều tốt nhất họ có thể thực hiện, Gérard Houllier được bổ nhiệm là đồng huấn luyện viên cùng Roy Evans vào mùa giải 1998-99, nhưng được toàn quyền dẫn dắt sau khi Evans từ chức vào tháng 11 năm 1998.

Trong năm 2001, Liverpool giành được giành được cú ăn ba gồm: Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA; cùng 2 danh hiệu khác là Siêu cúp châu Âu và Siêu cúp Anh. Houllier phải thực hiện một ca phẫu thuật tim trong mùa giải 2001-02 và Liverpool về đích vị trí thứ nhì tại Giải Ngoại hạng, sau Arsenal.

Mùa 2002-03, họ giành được thêm Cúp Liên đoàn nhưng tới mùa sau đó thì không đoạt bất kì danh hiệu nào, và lối chơi trong giai đoạn này cũng không thuyết phục.

Thông tin đội Ajax

Là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Hà Lan có trụ sở tại Amsterdam , thi đấu tại Eredivisie , giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan. Trong lịch sử, Ajax (được đặt theo tên của người hùng huyền thoại Hy Lạp ) là câu lạc bộ thành công nhất ở Hà Lan , với 36 danh hiệu Eredivisie và 20 KNVB Cup . Nó đã liên tục chơi ở Eredivisie, kể từ khi giải đấu bắt đầu vào năm 1956 và cùng với Feyenoord và PSV Eindhoven , nó là một trong những câu lạc bộ ” ba ông lớn ” của đất nước đã thống trị cuộc thi đó.

Ajax là một trong những câu lạc bộ thành công nhất thế giới trong thế kỷ 20. Theo IFFHS , Ajax là câu lạc bộ châu Âu thành công thứ bảy trong thế kỷ 20 và Đội hình câu lạc bộ của năm trên thế giới vào năm 1992. Theo tạp chí Kicker của Đức , Ajax là câu lạc bộ châu Âu thành công thứ hai trong thế kỷ 20 thế kỷ. Câu lạc bộ là một trong năm đội giành được quyền giữ Cúp châu Âu và đeo huy hiệu nhiều người chiến thắng. Năm 1972, họ hoàn thành cú ăn ba châu lục khi giành được Eredivisie , KNVB Cup và European Cup. Họ cũng giành được Siêu cúp châu Âu đầu tiên (mặc dù không chính thức) trước Rangers vào tháng 1 năm 1973. Các danh hiệu quốc tế gần đây nhất của Ajax là Cúp Liên lục địa 1995 , Siêu cúp UEFA 1995 và Champions League 1995 , nơi họ đánh bại Milan trong trận chung kết ; họ đã thua trận chung kết Champions League 1996 trên chấm phạt đền trước Juventus . Năm 1995, Ajax được tạp chí World Soccer đăng quang danh hiệu Đội hình tiêu biểu của năm .

Ajax cũng là một trong bốn đội giành cú ăn ba châu lục và Cúp Liên lục địa hoặc Cúp thế giới các CLB trong cùng mùa giải / năm dương lịch; Điều này đã đạt được trong mùa giải 1971–72. Ajax là một trong năm câu lạc bộ đã vô địch cả ba giải đấu cấp câu lạc bộ lớn của UEFA. Họ cũng đã hai lần giành được Cúp Liên lục địa , Cúp UEFA 1991–92 , cũng như Cúp Karl Rappan , tiền thân của Cúp UEFA Intertoto năm 1962. Ajax thi đấu tại Johan Cruyff Arena, mở cửa với tên gọi Amsterdam ArenA vào năm 1996 và được đổi tên vào năm 2018. Trước đó họ đã chơi tại De Meer Stadion và Sân vận động Olympic Amsterdam (cho các trận đấu quốc tế).

Câu lạc bộ cũng đặc biệt nổi tiếng với chương trình trẻ nổi tiếng đã sản sinh ra nhiều tài năng Hà Lan trong những năm qua – Johan Cruyff , Edwin van der Sar , Gerald Vanenburg , Frank Rijkaard , Dennis Bergkamp , ​​Rafael van der Vaart , Patrick Kluivert , Marco van Basten , Wesley Sneijder , Maarten Stekelenburg , Nigel de Jong , Frenkie de Jong và Matthijs de Ligtđã trải qua các cấp bậc và chỉ là một số tài năng từng chơi cho Ajax. Ajax cũng thường xuyên cung cấp cho các đội tuyển trẻ quốc gia Hà Lan những tài năng địa phương.

Do các thỏa thuận chung với các câu lạc bộ nước ngoài, học viện trẻ cũng đã ký hợp đồng với các cầu thủ nước ngoài ở độ tuổi thanh thiếu niên trước khi ra mắt đội một, chẳng hạn như bộ ba phòng ngự người Bỉ Jan Vertonghen , Toby Alderweireld và Thomas Vermaelen cùng với cầu thủ chạy cánh Tom De Mul , tất cả đều là những cầu thủ quốc tế. , cũng như tuyển thủ Hà Lan Vurnon Anita và Javier Martina , đại diện cho Curaçao .

Ajax cũng đã mở rộng chương trình tìm kiếm tài năng sang Nam Phi với Ajax Cape Town . Ajax Cape Town được thành lập với sự giúp đỡ của Rob Moore. Ajax cũng đã có một câu lạc bộ vệ tinh ở Hoa Kỳ với cái tên Ajax America , cho đến khi nó nộp đơn phá sản. Có một số cầu thủ trẻ từ Ajax Cape Town đã được đưa vào đội hình Eredivisie, chẳng hạn như các cầu thủ Nam Phi Steven Pienaar , Thulani Serero và tuyển thủ Cameroon Eyong Enoh . Năm 1995, năm Ajax giành chức vô địch UEFA Champions League, đội tuyển quốc gia Hà Lan gần như hoàn toàn gồm các cầu thủ Ajax, với thủ môn là Edwin van der Sar; những cầu thủ như Michael Reiziger, Frank de Boer và Danny Blind ở hàng thủ; Ronald de Boer, Edgar Davids và Clarence Seedorf ở hàng tiền vệ; và Patrick Kluivert và Marc Overmars trên hàng công.

Năm 2011, Ajax mở học viện trẻ đầu tiên bên ngoài Hà Lan khi câu lạc bộ hợp tác với George Kazianis và All Star Consultancy ở Hy Lạp để mở Học viện thanh thiếu niên Ajax Hellas . Các văn phòng có trụ sở tại Nea Smyrni , Attica , với cơ sở đào tạo chính nằm trên đảo Corfu , có tổng cộng 15 học viện bóng đá trẻ trên khắp Hy Lạp và Síp. Eddie van Schaik đứng đầu tổ chức với tư cách là huấn luyện viên và cố vấn, giới thiệu triết lý bóng đá của Ajax tại các trại huấn luyện bóng đá Hy Lạp khác nhau. Vào năm 2016, Ajax đã thành lập ACA (Học viện huấn luyện Ajax) với mục đích chia sẻ kiến ​​thức, thiết lập nhiều trại và phòng khám cho cả cầu thủ và huấn luyện viên.

Sân vận động đầu tiên của Ajax được xây dựng vào năm 1911 bằng gỗ và được gọi là Het Houten Stadion (“Sân vận động bằng gỗ”). Ajax sau đó đã chơi trong Sân vận động Olympic được xây dựng cho Thế vận hội Mùa hè 1928 được tổ chức tại Amsterdam . Sân vận động này, được thiết kế bởi Jan Wils , được biết đến với cái tên Sân vận động Olympic. Năm 1934, Ajax chuyển đến De Meer Stadion ở phía đông Amsterdam, được thiết kế bởi kiến ​​trúc sư kiêm thành viên Ajax Daan Roodenburgh, người cũng đã thiết kế sân vận động đầu tiên của câu lạc bộ. Nó có thể chứa 29.500 khán giả và Ajax tiếp tục chơi ở đó cho đến năm 1996. Đối với các giải đấu lớn của châu Âu và quốc gia, câu lạc bộ thường chơi tại Sân vận động Olympic, nơi có thể chứa gấp đôi số lượng khán giả.

Năm 1996, Ajax chuyển đến sân nhà mới ở phía đông nam thành phố mang tên Amsterdam Arena, từ năm 2018 được gọi là Johan Cruyff Arena . Sân vận động này được xây dựng bởi chính quyền thành phố Amsterdam với chi phí 134 triệu USD. Sân vận động có sức chứa khoảng 54.990 khán giả. Số người tham dự trung bình trong năm 2006–07 là 48.610, tăng trong mùa giải tiếp theo lên 49.128. Nhà thi đấu có mái che có thể thu vào và tạo ra xu hướng cho các sân vận động hiện đại khác được xây dựng ở Châu Âu trong những năm tiếp theo. Ở Hà Lan, nhà thi đấu Arena đã nổi tiếng với một sân cỏ khủng khiếp do mái che có thể tháo rời, ngay cả khi mở ra, lấy đi quá nhiều ánh sáng mặt trời và không khí trong lành. Trong mùa giải 2008–09, nhân viên mặt đất đã giới thiệu một hệ thống chiếu sáng nhân tạo cuối cùng đã làm giảm đáng kể vấn đề này.

De Meer Stadion rất được yêu thích đã bị phá bỏ và đất được bán cho hội đồng thành phố. Một khu dân cư hiện chiếm khu vực này. Thứ duy nhất còn lại của sân vận động cũ là các chữ cái “AJAX”, ngày nay được đặt trên mặt tiền của sân đào tạo trẻ De Toekomst , gần Sân vận động Johan Cruyff.

Năm 1900, khi câu lạc bộ được thành lập, biểu tượng của Ajax chỉ là hình ảnh của một cầu thủ Ajax. Đỉnh cao đã được thay đổi một chút sau khi câu lạc bộ thăng hạng lên giải đấu hàng đầu vào năm 1911 để phù hợp với trang phục mới của câu lạc bộ. Năm 1928, logo câu lạc bộ được giới thiệu với hình đầu của người hùng Hy Lạp Ajax . Logo một lần nữa được thay đổi vào năm 1990 thành một phiên bản trừu tượng của logo trước đó. Logo mới vẫn thể hiện chân dung của Ajax, nhưng được vẽ chỉ với 11 dòng, tượng trưng cho 11 cầu thủ của một đội bóng đá.

Ajax ban đầu thi đấu trong bộ đồng phục toàn màu đen với dây thắt lưng màu đỏ buộc quanh eo của các cầu thủ, nhưng bộ đồng phục đó nhanh chóng được thay thế bằng áo sơ mi sọc đỏ / trắng và quần đùi đen. Đỏ, đen và trắng là ba màu của quốc kỳ Amsterdam . Tuy nhiên, khi dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Jack Kirwan , câu lạc bộ lần đầu tiên được thăng hạng lên đội bóng hàng đầu của bóng đá Hà Lan vào năm 1911 (sau đó là Eerste Klasse hay ‘First Class’, sau này được đặt tên là Eredivisie), Ajax đã buộc phải thay đổi màu áo của mình vì Sparta Rotterdam đã có trang phục giống hệt nhau. Bộ dụng cụ đặc biệt cho đồ thi đấu sân khách không tồn tại vào thời điểm đó và theo quy định của hiệp hội bóng đá, những người mới đến phải thay đổi màu sắc của họ nếu hai đội trong cùng một giải đấu có đồng phục giống hệt nhau. Ajax đã chọn quần đùi trắng và áo sơ mi trắng với sọc đỏ dọc rộng trên ngực và sau lưng, đây vẫn là trang phục của Ajax.

AFC Ajax là câu lạc bộ Hà Lan duy nhất phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Câu lạc bộ được đăng ký với tư cách là một Naamloze vennootschap (NV) được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Euronext Amsterdam , kể từ ngày 17 tháng 5 năm 1998. Với giá ra mắt là ƒ25, – (Guilders) câu lạc bộ đã mang lại tổng doanh thu lên đến 54 triệu euro ( được chuyển đổi) trong năm đầu tiên có mặt trên thị trường. Tuy nhiên, sau thành công ngắn ngủi, tỷ lệ này đã giảm xuống, có thời điểm xuống tới € 3,50. Những lời chỉ trích đã được đưa ra rằng mạng lưới hợp pháp cho một naamloze vennootschap sẽ không phù hợp với một câu lạc bộ Bóng đá, và rằng những tham vọng liên quan đến thể thao sẽ bị ảnh hưởng bởi các lợi ích thương mại mới của Ajax hiện đã được liệt kê. Cổ phiếu của công ty trong năm 2008 được định giá khoảng € 5,90 / cổ phiếu.

Năm 2008, một Ủy ban dưới sự hướng dẫn của thành viên danh dự Uri Coronel đã kết luận rằng IPO không có giá trị gì đối với câu lạc bộ và cần thực hiện các biện pháp để thoát khỏi sàn giao dịch chứng khoán bằng cách mua lại tất cả cổ phiếu đại chúng. Ajax vẫn còn trên thị trường chứng khoán

Áo đấu của Ajax đã được TDK tài trợ từ năm 1982 đến năm 1991, và bởi ABN AMRO từ năm 1991 đến năm 2008. Sau đó AEGON thay ABN AMRO làm nhà tài trợ chính mới trong thời hạn bảy năm. Vào ngày 1 tháng 4 năm 2007, Ajax mặc một nhà tài trợ khác cho trận đấu với Heracles Almelo , Florius . Florius là một chương trình ngân hàng được phát động bởi ABN AMRO, người muốn nó trở thành nhà tài trợ áo đấu cho một trận đấu.

Những chiếc áo sơ mi đã được sản xuất bởi Le Coq Sportif (1973–1977), Puma (1977–1979), Cor du Buy (1979-1980), Le Coq Sportif (1980–1984), Kappa (1985– 1989) và Umbro (1989–2000) trong quá khứ, và bởi Adidas kể từ năm 2000 (cho đến ít nhất là năm 2025). Vào cuối mùa giải 2013–14 , Ajax đã giành được giải thưởng Áo đấu của năm cho chiếc áo sân khách màu đen và hoa hồng của Adidas. Giải thưởng hàng năm được trao bởi Subside Sports, trước đó đã trao giải cho Internazionale , Juventus và đội tuyển quốc gia Bỉ . Đây là lần đầu tiên Ajax giành được giải thưởng này.

Vào ngày 7 tháng 11 năm 2014, có thông báo rằng Ajax đã đồng ý ký hợp đồng 4 năm rưỡi trị giá 8 triệu euro hàng năm với công ty vận hành cáp của Hà Lan Ziggo với tư cách là nhà tài trợ áo đấu mới cho câu lạc bộ. Sau khi gia hạn hợp đồng với AEGON nửa mùa giải cho đến tháng 12, câu lạc bộ đã giới thiệu Fonds Gehandicaptensport , một quỹ từ thiện dành cho thể thao khuyết tật trên áo đấu sân khách của mình trong thời gian sáu tháng trước khi chuyển sang Ziggo vào năm 2015.

Jong Ajax ( trước đây thường được gọi là Ajax 2 ) là đội dự bị của AFC Ajax. Đội bóng bao gồm chủ yếu là các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, những người thường là những người mới tốt nghiệp từ cấp độ trẻ cao nhất (Ajax A1) phục vụ hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của họ với tư cách là dự bị, hoặc những cầu thủ không thể chơi ở đội một.

Kể từ năm 1992, Jong Ajax thi đấu tại Beloosystem Eredivisie , thi đấu với các đội dự bị khác như Jong PSV , Jong FC Groningen hay Jong AZ . Họ đã giành được kỷ lục vô địch Beloosystem Eredivisie tám lần, cũng như Cúp Dự bị KNVB ba lần, khiến họ trở thành đội dự bị thành công nhất ở Hà Lan. Với việc giành được danh hiệu Beloosystem Eredivisie , Jong Ajax đã có thể đủ điều kiện tham dự KNVB Cup thực tế, thậm chí tiến vào bán kết ba lần. Kết quả tốt nhất của họ tại Cúp quốc gia Hà Lan là dưới thời HLV Jan Olde Riekerink trong giai đoạn 2001–02, khi để thua Utrecht ở trận bán kết trong loạt sút luân lưu.sau hiệp phụ, Utrecht vượt lên dẫn trước, và do đó ngăn cản trận chung kết Cúp Hà Lan Ajax – Jong Ajax.

Mùa giải 2013–14 đánh dấu trận ra mắt tại Jupiler League của đội dự bị Ajax, Jong Ajax. Trước đây từng chơi ở Beloosystem Eredivisie (một giải đấu riêng biệt dành cho các đội dự bị, không nằm trong cấu trúc giải chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư của Hà Lan), các cầu thủ được phép di chuyển tự do giữa đội dự bị và đội đầu tiên trong suốt mùa giải. Điều này không còn xảy ra nữa vì Jong Ajax hiện đã đăng ký và cung cấp một đội hình riêng biệt từ đội một của Ajax cho Eerste Divisie, hạng hai của bóng đá chuyên nghiệp ở Hà Lan. Các trận đấu trên sân nhà của họ được chơi trên sân nhà Sportpark De Toekomst, ngoại trừ trận đấu không thường xuyên ở Johan Cruyff Arena.

Bây giờ được coi là một đội bán chuyên nghiệp theo khía cạnh riêng của họ, khoảng thời gian duy nhất mà người chơi có thể di chuyển giữa các đội là trong thời gian chuyển nhượng, trừ khi người chơi đã có ít hơn 15 lần ra sân cho đội đầu tiên, thì anh ta vẫn đủ điều kiện để xuất hiện trong cả hai trận đấu của đội một và đội hai trong mùa giải.  Hơn nữa, đội không đủ điều kiện để thăng hạng lên Eredivisie hoặc tham gia KNVB Cup. Jong Ajax đã được tham gia vào Eerste Divisie bởi Jong Twente và Jong PSV , những đội dự bị cũng đã chuyển từ Beloosystem Eredivisie sang Eerste Divisie, thay cho VV Katwijk , SC Veendam và AGOVV Apeldoorn , tăng tổng số đội trong Jupiler League từ 18 lên 20. Đội dự bị của Ajax Jong Ajax rời Beloosystem Eredivisie vào năm 2013, sau 21 năm cầm quân ở giải dự bị, cũng đã 8 lần giành chức vô địch giải đấu (1994, 1996, 1998, 2001, 2002, 2004, 2005, 2009).